VIÊN NGỘ


Trong cuộc đời sáng tác của mình, thư pháp họa của Viên Ngộ không chỉ mang đến giá trị thưởng thức mà còn giúp cảm hoá con người.

Đến với thư pháp chữ Việt, Viên Ngộ không chỉ mang đến người xem sự trải nghiệm huyền bí trong các tác phẩm mà ông còn mang đến cho người xem một phong cách mới lạ, độc đáo - phong cách họa chữ nên tranh (thư pháp họa). 
Nhà thư pháp Viên Ngộ bên tác phẩm độc đáo của mình
Độc đáo viết thư pháp thành hình tượng
Có xem kĩ thư pháp họa của Viên Ngộ, mọi người mới thấy được những nét độc đáo trong những tác phẩm của ông. Nó không giống như các bức thư pháp thông thường mà là một sản phẩm của sự kết hợp hài hòa giữa hình ảnh và chữ viết. Những đường nét đầy sáng tạo mà lại uyển chuyển kỳ diệu được tác giả liên kết bằng chữ Việt thật tinh tế và sâu lắng biết bao.
Ông bảo: “Việc dùng chữ từ ý tưởng để viết thành hình tượng là cả một quá trình của sự hình dung và sáng tạo. Khi viết tên một nhân vật nào đó, dù có nổi tiếng hay không cũng phải có thời gian tìm hiểu con người ấy ra sao, tính nết của họ thế nào và thông qua các cuộc nói chuyện để tìm cảm xúc trình bày trong thư pháp nhằm khắc họa đúng nhất về nhân vật ấy. Như vậy mới tạo được bức thư pháp họa vừa đẹp vừa có hồn mà lại mang ý nghĩa cuộc sống của con người”.
Để thực hiện được điều này, Viên Ngộ phải tìm được cái tốt của mỗi người để vẽ, hầu hết phát huy được tính chân  thiện  mỹ trong con người để cho người xem đọc được, hiểu và cảm được. Ông cho biết: “Có nhiều đêm bỗng nhiên nảy ra ý tưởng, từ trên giường tôi bật dậy, lấy bút vẽ nghuệch ngoạc ra giấy (nháp) để lưu lại ý tưởng. Mình cũng có tuổi rồi, nếu không nháp lại ngay từ lúc đó thì rất dễ đánh mất ý tưởng hay. Có nhiều tác phẩm tôi không phải dùng một ý tưởng không thôi đâu, phải dùng nhiều ý tưởng để lắp ghép, kết hợp chúng với nhau mới thành một tác phẩm hoàn chỉnh. Vậy nên, tôi luôn luôn có sẵn những tờ giấy nháp và cây viết chì đặt ở đầu giường, khi nào ý tưởng nảy sinh thì viết ngay vô đó, rồi thực hiện viết hoàn chỉnh sau”.
Kể lại những kỷ niệm viết chữ (thư pháp họa) cho nhân vật, nhà thư pháp họa Viên Ngộ kể lại: “Mới đây, có cô tên là Diệp Vy đang bị sốc về cậu con trai của mình vì tính ương ngạnh, khó bảo của nó đã đến nhờ tôi viết cho một chữ nhằm cảm hóa. Tôi phải nghĩ rất nhiều, mất 4 đêm trăn trở mới nảy ra ý tưởng và đã hình thành chữ Diệp Vy theo biểu tượng cây đèn thần. Nó thể hiện niềm hy vọng của người mẹ (Diệp Vy) sẽ chiếu soi, cảm hóa cái tâm của cậu con khó bảo đó. Biểu tượng cây đèn thần ấy đã có tác dụng, sau khi viết cho Diệp Vy vài tháng, cậu con trai của cô ấy dần dần ôn hòa với mọi người hơn, dễ bảo hơn rất nhiều".
Lối thư pháp độc tôn
Thư pháp họa là lối viết chữ mới có hình tượng tạo cảm xúc chứ không phải chữ đơn thuần như thư pháp truyền thống. Thế nên, những họa sĩ có xu hướng thương mại không thể len lỏi vào hàng ngũ những người họa thư pháp được, bởi tốn nhiều thời gian mà thu nhập không tương xứng. Người xem phải chiêm nghiệm khi thấy cảnh núi cao trong bức tranh Bình An, thấy trăng, mây và thuyền buồm để minh họa cho chữ Quê Hương...
Người xem rất thích thư pháp họa chữ Ơn Thầy của Viên Ngộ, trong đó có hình tượng người đưa đò qua sông, có cánh buồm căng gió lướt nhanh trên sóng nước. Để tạo sự hài hoà, Viên Ngộ cũng đặt luôn một vài câu thơ do ông tự sáng tác.
Một điểm đặc biệt trong thư pháp họa của Viên Ngộ là ông không dùng hai màu trắng - đen cổ điển, mà sử dụng giấy màu, mực màu để họa. Ông bảo: “Tôi không chạy theo đời thường dễ tính, mà bắt người xem phải suy nghĩ, nghiền ngẫm bức tranh để từ đó cảm được mà hiểu ra ý nghĩa của nó. Về kỹ thuật có thể còn non kém nhưng về ý tưởng thì phải đạt trình độ cao thì con chữ mới nhiều ý nghĩa.
Nhà thư pháp Viên Ngộ thổ lộ: “Người viết thư pháp họa phải biết phối hợp tới 7 môn nghệ thuật (họa, thơ, triết lý, võ thuật, nhạc) thì bức tranh mới đạt đến đỉnh điểm của nghệ thuật thư pháp. Tất cả những bức thư pháp họa ông viết đều phải có tiến trình nhất định, không có chữ nào ông viết nhanh hơn một tuần. Cách viết chữ của ông có vẻ kỳ quái nhất trong giới viết thư pháp ở nước ta. Ông cho hay: “Khi viết thư pháp họa tôi thường phải nín thở, xuống tấn để giữ thăng bằng, có thế mới có thể viết mạnh hơn, con chữ thanh thoát, có hồn hơn. Đó là một cách thiền, thiền làm nên tứ để viết, lúc đó con chữ sẽ nhẹ đi rất nhiều khi vẽ.
Đến với thư pháp nhờ cơ duyên
Năm 1995, cơ duyên và sự may mắn đã đến với Viên Ngộ. Trong lần đi xem triển lãm đầu tiên tại Thiền viện Vạn Hạnh, ông có những xúc cảm khi được chiêm ngưỡng nhiều bức thư pháp điêu luyện của tác giả. Từ đó, ông bắt đầu đam mê và tìm hiểu rất nhiều về thư pháp nhưng không thích theo đường lối thư pháp cũ. Ông giác ngộ: “Thư pháp phải là chữ viết độc đáo, gây ấn tượng mạnh và cho người xem sự tốt lành trong chính con chữ mình viết ra”. Bằng suy nghĩ ấy, năm 2001, ông bắt đầu tự chiêm nghiệm, tự học để bước chân vào con đường thư pháp.


BÙI HIẾN


Bùi Hiến, thư pháp gia chữ Việt
Nổi tiếng với danh hiệu “Ông đồ của thơ Bùi Giáng”, thư pháp gia Bùi Hiến rất hay tổ chức những đợt triển lãm thư pháp thơ Bùi Giáng. Lần này cũng không ngoại lệ, trong số những bức thư pháp mà ông mang đến với sinh viên trường ĐHKHXH&NV cũng có nhiều thơ Bùi Giáng. Có thể qua đợt triển lãm này, ngoài việc thưởng thức nét bút, có bạn sẽ cảm được đôi chút về thơ của thi sĩ Bùi Giáng chăng?
Với vẻ ngoài rất nghệ sĩ và lãng tử, phong cách của thư pháp gia Bùi Hiến rất phóng khoáng và vui vẻ. Nét chữ của ông luôn tràn đầy sức sống mãnh liệt, và trong ông luôn có dồi dào năng lượng dành cho thi ca.
Trong thời gian triển lãm, thư pháp gia Bùi Hiến sẽ có vài buổi viết thư pháp tại chỗ theo yêu cầu của sinh viên.

CÁC TÁC PHẨM:

   


TRIỀU NGUYÊN

triuennguyen-2.gif
Bạn đọc và người xem đài cả nước không còn lạ với các gương mặt nghệ sĩ Quảng Nam tại TP.HCM như: Phan Huỳnh Điểu, Vũ Đức Sao Biển, Trần Quế Sơn (nhạc sĩ), Nhật Minh (diễn viên điện ảnh), Mỹ Tâm, Đàm Vĩnh Hưng, Ánh Tuyết (ca sĩ), Ngọc Sang, Thúy Vinh (nghệ sĩ diễn ngâm), Phạm Văn Hạng, Trần Hoài (họa sĩ), Tường Linh, Sơn Thu (nhà thơ), Nhật Ánh, Vũ Hạnh (nhà văn) Nguyễn Thiên Chương, Bùi Hiến (thư bút), nhưng sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến “vua” thư họa chữ Việt-Triều Nguyên.

Không chỉ là thư pháp gia chữ Việt, ông còn là một thi sĩ. Với dáng người hiền lành, mộc mạc, cách nói chuyện dễ chịu, hóm hỉnh, nét bút của ông cũng rất có thần và đặc biệt có chiều sâu. Lời bộc bạch của ông dưới đây có thể gặp được sự đồng điệu nào từ các bạn không?

“Viết thư pháp với tôi là một thú vui. Nó cũng giống như làm thơ, trước hết là làm cho riêng mình. Sau đó tặng bạn bè tâm giao. Với góc nhìn cá nhân, tôi thấy không có gì to tát. Có thể những bức thư pháp tôi viết khó có thể vừa lòng tất cả mọi người nhưng chỉ cần một người đồng điệu đã là tri kỷ. Thư pháp gần với thơ và nâng thơ lên một bậc. Xem thư pháp dễ rung động với vần điệu, tình ý lòng người…” 




Lần nào đến thăm Triều  Nguyên tôi cũng mê mẩn ngắm các bức thư  họa của anh. Ngoài vẻ đẹp của hồn chữ Việt còn có niềm luyến tiếc một loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo từng có một thời đăng quang rực rỡ thì nay đang có nguy cơ lụi tàn, vì các “vua” của bộ môn này “sắp thoái vị” do quá già mà chưa có người kế thừa. Triều Nguyên thuộc “tuýp” người đa năng, sở trường 4 lĩnh vực: thư họa-hội họa, thư bút-thơ mà không qua trường lớp. Mới đây anh còn được bạn đọc, các Tăng Ni Phật tử biết đến là tác giả của “Thi lược lời Kinh Pháp Cú” (NXB Văn Nghệ 2009), phỏng dịch từ nguyên tác “387 câu Kinh Pháp Cú” của cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu bằng thể thơ lục bát.
trieunguyen-1.gif

Thư họa “A Di Đà Phật”
Anh quê Đại Lộc, Quảng Nam. Là Phật tử thuần thành lúc 34 tuổi, ăn chay trường 17 năm. Nhờ đức tính sùng đạo, sớm tiếp nhận đạo pháp và nhờ năng khiếu “trời cho trò chơi” nghệ thuật, lập nên tên tuổi, lấp lánh chữ Tâm trong cách thể hiện nghệ phẩm, trong giao tiếp chân tình, rất gần gũi chứ không hề nghĩ “chơi không đem lại cái lợi, không chơi!”.
Triều Nguyên là cây cọ thư họa Quảng Nam duy nhất còn sót lại ở TP.HCM. Theo anh, thư họa xuất xứ từ Trung Quốc, Hàn Quốc, du nhập vào Việt Nam cách đây hơn một thế kỷ. Anh được một nghệ sĩ vô danh truyền thừa, và do đam mê anh trở thành người thầy của chính mình. Tính khái niệm và tính sáng tạo dựa trên bố cục nhập tâm, Triều Nguyên phối hợp tinh tế giữa sự chắc chắn và sự phóng túng thường thấy ở người nghệ sĩ để đưa vào nghệ phẩm thư họa hình ảnh chim, bướm, tre trúc, long phụng uốn lượn cực kỳ linh hoạt, sống động như mây bay nước chảy.
Ở bức "A Di Đà Phật”, Triều Nguyên nghiên cứu kỹ thuật viết một chữ sao cho đúng phong cách thư họa và được tăng cường do nhập định và lòng tin bằng các nét mảnh lờ mờ và nhanh, những đường cong thuận nghịch chiều kim đồng hồ, những “khoảng trống bay bổng” được chế ngự tài tình như không hề dụng công, cứ để các con chữ tự do tung tăng bay nhảy trên trang giấy, nhưng không vì thế mà thấy sự yếu kém hay bất cân đối. Xét về mặt bố cục, từ chữ A đầu đến chữ Phật cuối, Triều Nguyên ít sử dụng nét đậm nhưng giàu màu sắc, và mức phức tạp cứ tăng dần nhờ động tác xòe cọ (một loại cọ chẻ chuyên dùng giống như răng lược) để quay nhẹ nửa vòng, tạo sự uyển chuyển như lưu thủy ở đôi long phụng, và kết thúc bằng cách ngắt nhẹ tưởng như đơn điệu ở chữ i, a, t trước khi nhấc cọ lên khỏi mặt giấy, chuẩn bị cho nét tiếp theo. Việc biểu hiện cá tính trong các nghệ phẩm thư họa của Triều Nguyên vẫn tiếp tục gây cảm hứng và làm say đắm nhiều người vốn yêu thích loại hình nghệ thuật này. Tiếc rằng, thư họa chữ Việt ngày càng hiếm và có nguy cơ thất truyền.
Không chỉ phát tiết ở thư họa mà còn tài hoa ở hội họa. Ở bức "Bồ Đề Đạt Ma quá giang”, ta thấy chiếc áo choàng của vị Tổ sư được kéo lên làm mũ trùm đầu, chỉ để lộ vầng trán hói và gồ lên, còn đôi mắt mở lớn và cái miệng lộ hẳn nhờ khung nền màu đen của bộ râu, của cặp lông mày như hai thanh kiếm vắt ngang, kéo dài ra gần mang tai. Những nét nhấn mạnh màu đen thu hút sự chú ý tới cái miệng và ở đôi mắt với cái nhìn đăm đắm về phía trước. Trong khi những đường gấp, dợn sóng của chiếc áo thanh mảnh, mềm mại, bay bổng, tương phản với đường cong mạnh mẽ và dày ở khuôn mặt, tạo hiệu ứng sống động không chỉ với nhân vật mà cả khoảng không xung quanh. Triều Nguyên còn  khéo léo sử dụng kỹ thuật thư bút đưa vào bức họa “một cây gậy” bằng đường sổ ngang vắt qua vai nhân vật, trông nhẹ hẫng, mặc dù đang quảy chiếc giày và hồ lô. Cách thể hiện biểu tượng một Lão Hòa thượng mạnh mẽ đi qua sông bằng xâu chuỗi hạt vừa kỳ tích, vừa huyền bí khiến người ta không cảm thấy sức nặng và sự cân bằng nơi nhân vật ngay cả khi vị Tổ sư đứng trên chuỗi hạt, và gió thổi mạnh để qua sông.






Triều Nguyên còn là cây cọ xuất sắc ở lĩnh vực thư bút Việt. Toàn bộ nghệ phẩm của anh, ngoài việc tham dự triển lãm ở Hội hoa Đà Lạt, Hội An, Đà Nẵng, TP.HCM, anh còn “trưng bày” ở nhà của bạn bè, tới đâu cũng thấy bóng dáng Triều Nguyên. Nếu làm một phép so sánh về mặt ổn định, mỹ cảm, và vẻ mạnh mẽ thì phong cách biểu đạt của Triều Nguyên hoàn toàn khác biệt với các cây cọ khác. Thế nhưng với anh, tâm huyết vẫn là thơ. 32 bài thơ trong 
Bay đi hạt cát (NXB VHSG, 2007) là chuỗi kết nối giữa thơ truyền thống và phá cách, rất riêng về mặt trí tuệ và biểu cảm. Tâm đắc hơn, Thi lược lời Kinh Pháp Cú, ngay khi sách phát hành, lập tức được nhà chùa và Phật tử đón nhận vì tính chính xác của bản dịch, tính truyền cảm của thơ lục bát, và trên hết là anh đã giàu công nhiều năm nghiên cứu 10 bộ Kinh Pháp Cu của nhiều tác giả khác nhau để chọn dịch 1/10 bộ. Dưới đây là một câu kinh Pháp Cú được Triều Nguyên dịch bằng thơ: Ngôi nhà che chắn kỷ cương/Ngại chi nắng lửa mưa sương lọt vào/Tu thường tỉnh giác khôn nao/Chân tâm hồ dễ nhiễm trào dục tham (Nguyên tác - Nhà khéo lợp kín ắt không bị mưa dột; cũng vậy, người tâm khéo tu ắt không bị tham dục lọt vào).

LÊ XUÂN HÒA

Thư pháp gia Thanh Hoằng Khê LÊ XUÂN HÒACái tin nhà thư pháp Thanh Hoằng Khê Lê Xuân Hòa ra đi mãi mãi, đã làm cho không ít người ngậm ngùi thương tiếc, không chỉ trong giới thư pháp, thư họa Việt Nam, mà còn cả trong lòng những ai đã từng tri diện với cụ, được cụ tặng chữ, hoặc được biết đến cụ cho dù chỉ là “văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”..



Một “biểu tượng” của làng thư pháp Việt Nam.

Trong làng thư pháp Việt, hiếm có thư gia nào, được cả người chơi thư pháp chữ Hán, lẫn thư pháp chữ Quốc ngữ, luôn nhắc tới trong niềm kính trọng như cụ Lê Xuân Hòa. Sống gần đủ một thế kỷ, chứng kiến bao cuộc thăng trầm của lịch sử dân tộc, cũng như những biến đổi hình thái kinh tế xã hội từ phong kiến sang XHCN; lại là người xuất thân từ giòng dõi nho gia, lớn lên giữa lúc đạo Nho thất thế, trải qua nhiều oan khuất và lưu lạc hơn nửa đời người nơi mảnh đất nghìn năm văn vật nhưng không phải quê nhà. Lê Xuân Hòa là một trong số ít những người chơi chữ ở Việt Nam chứng kiến được toàn cảnh bức tranh “thư pháp Việt”, từ cái buổi “qua đường không ai hay” đến khi môn nghệ thuật này có cho mình một cái gì đó mang ý nghĩa là của người Việt làm nên.

Từ những năm cuối cùng của thế kỷ XX đến nay, phong trào thư pháp Việt nói chung, bao gồm cả thư pháp chữ Hán và chữ Quốc ngữ phát triển rầm rộ cả về chất và lượng trên phạm vi cả nước, thì cũng chính trong thời gian này, thư họa gia Lê Xuân Hòa cũng bước sang cái tuổi “cạn mùa tuế nguyệt”. Người ta nhắc nhiều đến tên ông trong những cuộc triển lãm thư pháp lớn gần đây ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, khi mà ông chỉ còn tham gia triển lãm bằng những tác phẩm được sáng tác từ khi ông còn khỏe, như một niềm kích lửa cho các tác giả thư pháp @. Hành nhiệm ấy, không chỉ đơn thuần là khích lệ, mà sâu xa hơn, là sự truyền lửa cho thế hệ trẻ hôm nay, với những ai quý trọng chữ thánh hiền, đang âm thầm tiếp nhận, lặng lẽ duy trì và hân hoan phát triển nghệ thuật này.

Cái hình ảnh về nhà thư pháp tiền bối Lê Xuân Hòa, với chòm râu bạc, nụ cười tươi sáng, cánh tay thanh thoát đưa bút thảo chữ ở Văn miếu Quốc tử giám mỗi khi tết đến xuân về, như in vào lòng người dân Hà thành nhiều năm qua. Cho đến khi, người ta thấy xuất hiện trong sân Văn miếu những cuộc trình diễn thư pháp với quy mô lớn, toàn là những “ông đồ thời @”, trong trang phục quần tây áo sơ mi, túi giắt điện thoại di động, và sau lưng họ là những tấm poster cỡ lớn đượm chất công nghệ, công chúng hiểu được rằng, ở đây, ngay trong cái sân quốc học này, đã có một cuộc chuyển giao sâu sắc. Mặc dù vậy, những người trẻ chơi thư pháp hôm nay ở Việt Nam, dù có cởi bung khái niệm thư pháp ra đến đâu đi nữa, thì với họ, tài sản lớn nhất của thế hệ đi trước để lại, chính là những di sản về nhân cách và triết lý sống cao đẹp của chữ thánh hiền ngấm trong những thư gia như Lê Xuân Hòa, Nguyễn Văn Bách, Lại Cao Nguyện, Cung Khắc Lược…để lại trong chính quá trình hoạt động thư pháp, gần cả cuộc đời các cụ. Nhưng đúng lúc này, khi cái “mùa xuân thư pháp Việt” đang trổ những bông hoa mang hương sắc Việt, thì cụ Lê Xuân Hòa lại mỉm cười ra đi trong niềm thanh thản…

Nét chữ còn nguyên dấu anh tài…
Thư pháp gia Thanh Hoằng Khê LÊ XUÂN HÒA
Khi cụ chưa qua đời, có lời đồn rằng, ở Việt Nam tính cho đến cuối thế kỷ XX, chỉ có duy nhất thư họa gia Lê Xuân Hòa là “chuyên nghiệp” về thư pháp. Cụm từ chuyên nghiệp ở đây được hiểu với nghĩa là sống bằng nghề viết chữ. Thế nhưng, sự chuyên nghiệp ấy, theo như phong thanh dân trong làng thư pháp ước tính, thì cụ cũng chỉ trải qua khoảng mươi lăm hai chục năm thôi. Đó là giai đoạn từ khi cụ về hưu đến những năm 1990 -1995. Với bất cứ ai cầm bút lông chơi thư pháp, cũng hiểu được rằng, cái nghề đứng thứ nhất trong bốn thứ là chữ, tranh, sành, kiểng này, phải cần chơi đến cuối đời mới mong thành tựu. Mọi thành công trước đó, cũng chỉ là những lát cắt nhỏ lẻ, làm nền tảng cho công phu tập luyện. Với cụ Hòa, có lẽ như điều nhận xét ấy là đúng sự thật.

Bao nhiêu thăng trầm dâu bể từ buổi bỏ xứ Thanh ra đất kinh kỳ, cho đến khi thôi không đảm đương các công việc xã hội nữa, cứ như ngấm cả vào nghiên mực đặc sánh, quyện trong nét bút tài hoa, lao đi trong nét thảo thư và hành thư đới thảo nổi tiếng của cụ. Để rồi, những bức chữ ấy, không chỉ đến với những người yêu văn mến chữ, mà còn được các chính trị gia trong và ngoài nước ngưỡng mộ, trân trọng. Cụ tặng chữ cho các nguyên thủ quốc gia như nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải…với những chữ thể hiện nhân cách, con người, công việc của từng người được tặng. Cụ nhìn thấy người, biết người đó cần chữ gì để cho họ, điều đó nói lên rằng, trước tiên cụ đã nhìn thấy mình bằng ánh mắt khiêm nhường và trái tim trong sáng. Đó cũng chính là cái Đạo của chữ, mà cũng là cái đạo của người chơi chữ vậy.


Với cách hiểu, thư pháp là nghệ thuật dùng cái đẹp của chữ viết để biểu hiện cái chân, cái thiện của tư tưởng và tâm hồn, nhà thư pháp luôn coi trọng tầm cao của tư duy và cảm xúc những dòng chữ mình viết. Có thể nhận định rằng, nhà thư pháp Lê Xuân Hòa là một trong số ít những thư pháp gia ở Việt Nam đạt đến tầm như vậy. Tuy cụ đã ra đi, nhưng những nét chữ tài hoa, chứa đựng những ẩn tình sâu xa thâm thúy cụ để lại, sẽ mãi là những di sản quý cho những thế hệ đi sau học tập. Xin vĩnh biệt nhà thư pháp hàng đầu Việt Nam: Thanh Hoằng Khê Lê Xuân Hòa!

Nhà thư pháp Thanh Hoằng Khê Lê Xuân Hòa quê ở Làng Phú Khê, huyện Hoằng Khuê (Thanh Hóa). Ông sinh năm 1914, trong một gia đình có truyền thống Nho gia. Từ nhỏ Lê Xuân Hòa đã được học chữ nho. Nhưng rồi đạo Nho thất thế, không ai dùng tới. 10 tuổi, Lê Xuân Hòa bỏ khoa thi, song vẫn tự học để hoàn thiện trình độ tiểu học, đặc biệt là vốn chữ Hán. Thời ấy, cậu bé Hòa đã nổi tiếng về chữ tốt.